Theo dự báo, đến năm 2023, lượng nguyên liệu nhựa chính phẩm cho sản xuất ở Việt Nam cần khoảng 10 triệu tấn. Lượng nhựa phế liệu nhập khẩu phục vụ pha trộn lên tới ba triệu tấn/năm, chưa tính phần nhập khẩu để sản xuất nhựa tái sinh xuất khẩu. Vì thế, việc cho nhập khẩu và sử dụng nhựa phế liệu làm nguyên liệu sản xuất là một hướng đi mang tính chiến lược, kèm đó là sự kiểm soát chặt các tiêu chuẩn về ô nhiễm môi trường nước và khí. pollution.
Ngành nhựa được coi là một trong những ngành năng động và tăng trưởng cao nhất ở nước ta. Trong 10 năm qua, mức tăng trưởng của ngành này luôn đạt khoảng 15 đến 20%, nhưng phải nhập khẩu tới 80% nguyên liệu. Hiện nay, các nhà máy trong nước sản xuất mỗi năm 780.000 tấn nguyên liệu nhựa; trong đó, Lọc hóa dầu Bình Sơn (150.000 tấn PP), Hóa chất AGC (200.000 tấn PVC), Nhựa và Hóa chất TPC Vina (190.000 tấn)… 5 năm trở lại đây, nhu cầu nguyên liệu nhựa nhập khẩu của ngành tăng trưởng trung bình 13.5% về lượng và 16% về giá trị. Năm 2017, Việt Nam đã nhập khẩu 4.9 triệu tấn hạt nhựa, tổng kim ngạch nhập khẩu hạt nhựa và sản phẩm nhựa lên tới gần 12.7 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu 2.5 tỷ USD, doanh thu gần 15 tỷ USD.
Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA) phân tích, căn cứ nhu cầu về nguyên liệu của toàn ngành nhiều năm qua, đặc biệt trong 5 năm trở lại đây, với tốc độ tăng trưởng lũy kế hằng năm đạt 10%, đến năm 2023, ngành nhựa cần khoảng 10 triệu tấn nhựa phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Theo Quy hoạch tổng thể ngành hóa dầu và các dự án, sản lượng sản xuất hạt nhựa nguyên sinh trong nước dự kiến đạt 2,6 triệu tấn, đáp ứng 26%, số còn lại 7,4 triệu tấn cần phải nhập khẩu từ nước ngoài. Mặc dù nỗ lực kêu gọi các dự án đầu tư nhà máy sản xuất nguyên liệu, nhưng năng lực hiện tại chưa thể đáp ứng nhu cầu. Vì thế, giải pháp hiệu quả và phù hợp xu thế tiêu dùng sản phẩm hiện nay là bù đắp một phần bằng các loại nguyên liệu nhựa tái sinh.
Hướng tới phát triển bền vững
Tận dụng nhựa phế liệu từ nhập khẩu để tái sinh, đưa vào sản xuất sản phẩm, kéo dài vòng đời của nguyên liệu nhựa để đem lại hiệu quả về mặt kinh tế luôn là mục tiêu hướng đến ở các quốc gia, ngay cả ở các khu vực kinh tế hàng đầu như Mỹ và EU. Giá thành thành phẩm nguyên liệu nhựa tái sinh sau khi nhập khẩu để tái chế luôn thấp hơn hạt nhựa nguyên sinh khoảng 30%, thậm chí 40%. Trong cơ cấu giá thành hầu hết các sản phẩm nhựa, chi phí nguyên liệu chiếm tỷ trọng 60 – 70%, nếu chi phí nguyên liệu giảm bao nhiêu, giá thành sản phẩm sẽ giảm tương ứng.
Khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, doanh nghiệp nhựa Việt Nam chỉ tận dụng được lợi thế về phần trăm mức thuế đối với sản phẩm của các nước không phải thành viên của FTA. Trong hai năm qua, Việt Nam nhập khẩu và tiêu thụ ồ ạt các sản phẩm nhựa từ Thái-lan và Malaysia, Indonesia. Việc bị động về nguồn nguyên liệu, kéo theo thiếu chủ động về giá nguyên liệu đã là một lực cản lớn, nay lại không có điều kiện sử dụng nguồn nguyên liệu nhựa tái sinh mà vẫn phải bảo đảm chất lượng sản phẩm để cạnh tranh là “rào cản” hạn chế sự bứt phá của doanh nghiệp nhựa trong nước.
Về lâu dài, khi mất lợi thế cạnh tranh, ngành nhựa sẽ mất thị phần ngay trên “sân nhà”, nhiều thương hiệu nhựa lớn sẽ bị thâu tóm qua các thương vụ M&A như: Bình Minh, Tín Thành, Tân Tiến… Ngành nhựa nước ta lợi nhuận bình quân còn thấp, phụ thuộc thời gian nhập khẩu nguyên liệu kéo dài khoảng hai tháng, chịu rủi ro lớn về tỷ giá và biến động giá dầu. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam chủ động nguồn nguyên liệu nhựa tái sinh thay thế trong nước, sẽ giảm được giá thành, tăng lợi nhuận và tái đầu tư cho nghiên cứu phát triển các sản phẩm nhựa kỹ thuật cao. Ngoài các doanh nghiệp đang sản xuất sản phẩm nhựa, còn có các doanh nghiệp trong nước sản xuất xơ sợi polyester, PP cho ngành dệt – may, góp phần vào giá trị xuất khẩu xơ sợi gần bốn tỷ USD năm 2017.
Vì thế, phát triển nền công nghiệp tái chế tiên tiến cho ngành nhựa trên nền tảng không đánh đổi môi trường vì lợi ích kinh tế có ý nghĩa cấp thiết. Cơ quan quản lý cần phối hợp VPA nhanh chóng xây dựng bộ tiêu chuẩn về chất xả thải sau cuối của quá trình tái chế nhựa phế liệu ở hai tiêu chuẩn chính gồm nước và khí. Thông qua phương án khống chế giá điện – mức điện sản xuất được Nhà nước ưu tiên giá, không cho phát sinh hay mở rộng quy mô tái chế tại làng nghề để hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường. Đổng thời, nhà nước đề ra chính sách khuyến khích và ưu tiên cấp phép cho những đơn vị, dự án sử dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến, để việc chuyển giao công nghệ và bí quyết công nghệ thật sự được chia sẻ và phát triển trong ngành nhựa.
Để biết thêm thông tin về máy móc, thiết bị, công nghệ và thị trường ngành nhựa hiện nay, hãy đăng ký tham gia ngay PLASTECH VIETNAM EXPO 2019 – cơ hội tuyệt vời cho các nhà sản xuất và chế biến nhựa tiếp thị sản phẩm, giới thiệu chuyên môn, xây dựng hình ảnh thương hiệu và tạo mối quan hệ với đối tác mới cũng như cơ hội kinh doanh tại Việt Nam và khu vực.
Source: vpas.vn